Lịch sử hoạt động Gleaves_(lớp_tàu_khu_trục)

Hai mươi mốt chiếc đã được nhập biên chế khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, mở màn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười một chiếc đã bị mất do hoạt động thù địch của đối phương trong chiến tranh, bao gồm Gwin, Meredith, Monssen, Ingraham, Bristol, Emmons, Aaron Ward, Beatty, Glennon, CorryMaddox.

Hầu hết những chiếc trong lớp được cho xuất biên chế ngay sau Thế Chiến II; mười một chiếc còn trong biên chế vào đầu những năm 1950, chiếc cuối cùng được rút khỏi phục vụ vào năm 1956.[3] Hobson bị đắm do va chạm với chiếc tàu sân bay Wasp vào năm 1952.

Vào năm 1949, Buchanan, Lansdowne, LardnerMcCalla được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ như những chiếc Gelibolu, Gaziantep, Gemlik và Giresun tương ứng. Chúng ngừng hoạt động và tháo dỡ vào giữa những năm 1970. Đến năm 1951, đến lượt Nicholson được chuyển cho Ý như là chiếc Aviere, và Eberle cùng Ludlow được chuyển cho Hy Lạp như là những chiếc Niki và Doxa tương ứng.

Vào năm 1954, EllysonMacomb được chuyển giao cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản, nơi chúng phục vụ như những chiếc JDS Asakaze (DD-181) và JDS Hatakaze (DD-182) tương ứng. Đến năm 1955, Rodman được chuyển cho Đài Loan như là chiếc ROCS Hsien Yang (DD-16), và Plunkett trở thành chiếc ROCS Nan Yang (DD-17) vào năm 1959. Asakaze và Hatakaze được Nhật Bản trả cho Hoa Kỳ vào những năm 1969-1970 khi chúng tiếp tục được chuyển cho Đài Loan sử dụng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gleaves_(lớp_tàu_khu_trục) http://destroyerhistory.org/ http://destroyerhistory.org/benson-gleavesclass/gl... http://www.destroyerhistory.org/benson-gleavesclas... http://www.destroyers.org http://www.destroyers.org/Class/cl-Gleaves.htm http://www.destroyers.org/DD-Histories/DD-Classes/... http://www.globalsecurity.org/military/systems/shi... http://www.navsource.org/archives/05idx.htm https://web.archive.org/web/20080118153104/http://... https://web.archive.org/web/20120207153157/http://...